Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 Điều 13 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
Theo quy định tại Điều 38 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trừ trường hợp việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lời ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Hoặc nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ: Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nọi cho cá nhân, tổ chức nghĩa nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luạt dân sự hiện hành và quy đinh khác của pháp luật có liên quan. Thảo luận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản và phải được công chứng.
Như vây, khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì, vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp trên, anh H có thể thỏa thuận với chị T để đồng ý việc định đoạt khối tài sản chung để lấy vốn kinh doanh. Nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.