Án lệ số /2017/AL về chia tài sản chung của vợ, chồng là phần vốn góp trong Công ty trách nhiệm hữu hạn đang hoạt động bình thường

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày …. tháng ….năm 2018 và được công bố theo Quyết định số …./QĐ-CA ngày…. tháng…..năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định Giám đốc thẩm số 02/2012/DS-GĐT ngày 12-01-2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình tại thành phố Hải Phòng giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hằng N và bị đơn là anh Đặng Ngọc K; người có quyền lợi liên quan là bà Chu Thị H và chị Nguyễn Hoàng Phượng L.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 5 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Trong vụ án ly hôn, vợ chồng cùng góp vốn để thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn do một người là giám đốc, một người là thành viên của Công ty. Công ty đang hoạt động bình thường; một người không muốn là thành viên của Công ty mà giao toàn bộ Công ty cho người kia quản lý, điều hành và yêu cầu Tòa án chia tài sản của mình trong Công ty.

- Giải pháp pháp lý:

Trong trường hợp này, Tòa án phải xác định người vợ (chồng) đang quản lý, điều hành Công ty phải thanh toán cho người kia giá trị tài sản của người đó trong Công ty mà không được dùng tài sản của Công ty để chia.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 tương ứng với Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điểm c khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06-01-2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình

Từ khóa của án lệ:

“Chia tài sản chung”, “Ly hôn”, “Tài sản chung của vợ chồng”; “Phần vốn góp”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20-12-2008 và trong quả trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hằng N trình bày.

Chị và anh Đặng Ngọc K kết hôn năm 1996, do tự nguyện, có đăng ký kết hôn, hiện có một con chung là cháu Đặng Thái D, sinh năm 1998.

Về tài sản chung:

- Anh K và chị đã thống nhất tổng giá trị tài sản sinh hoạt gia đình là 128.250.000 đồng, trong đó có 01 xe máy SH trị giá 4.500 USD (trừ đi khoản tiền vay để mua xe là 3.000 USD, còn lại trị giá là 26,5 triệu đồng), Hợp đồng mua bảo hiểm nhân thọ cho cháu D tính đến năm 2009 có giá trị 30.000.000 đồng.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL do anh K làm Giám đốc, trong đó phẩn góp vốn của chị là 60%, còn phần góp vốn của anh K là 40%. Theo bản kê ngày 14-01-2009 (do anh K kê) và kết quả định giá thì tài sản cố định (ôtô, đầu kéo, rơ móc) và thiết bị văn phòng (bàn, ghế, tủ, máy tính, máy in, máy đếm tiền, máy điều hòa, tủ lạnh, tổng đài điện thoại, điện thoại, bể cá, bình nước, quạt, đồng hồ treo tường, két sắt, giá treo mũ) trị giá 2.527.200.000 đồng. Tiền gửi tại Ngân hàng và tiền mặt tại quỹ là 641.633.033 đồng và 4.913,25 USD. Các khoản phải thu (khách hàng nợ) là 1.240.880.018 đồng. Các khoản phải trả là 805.000.000 đồng, bao gồm nợ Ngân hàng N (Chi nhánh NQ, Hải Phòng) 700.000.000 đồng và nợ chị Nguyễn Hoàng Phượng L 105.000.000đồng (dùng để mua ôtô).

- Căn nhà số 6 bãi chiếu bóng A đứng tên chị và anh K hiện thế chấp tại Ngân hàng N để Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL vay tiền.

- Về các khoản nợ khác: vợ chồng chị vay của bà Chu Thị H (mẹ của chị) 1.500 USD và vay của chị Nguyễn Hoàng Phương L 10.000 USD (trong đó 3000 USD dùng để mua xe máy SH và 7000 USD dùng để mua xe ôtô, Santafe).

Do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, nên chị xin được ly hôn anh K; nếu được chấp nhận, chị xin nhận nuôi cháu D và đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con do anh K đưa ra là 1.500.000 đồng/tháng. Chị không yêu cầu chia đàn Piano, đàn Oócgan và giá trị hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà để cho cháu D hưởng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản sinh hoạt sau khi trừ đi giá trị hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của cháu D, thì còn 98.250.000 đồng, mỗi bên được hưởng giá trị là 49.125.000 đồng. Chị xin nhận 01 bộ âm ly, loa, micro và đầu hát Karaoke trị giá 4 triệu đồng; 01 đầu DVD trị giá 2 triệu đồng; 01 đầu DVR trị giá 8 triệu đồng; 01 bộ bàn phấn, tủ quần áo, giường trị giá 4 triệu đồng; 01 máy vi tính và màn hình LCD trị giá 4 triệu đồng; 01 tủ chống ẩm trị giá 500.000 đồng; 01 xe máy SH có giá trị còn lại là 26,5 triệu đồng (sau khi trừ đi khoản vay 3000 USD và chị có trách nhiệm trả khoản vay này cho chị L).

Như vậy, tổng giá trị tài sản sinh hoạt mà chị nhận là 48.750.000 đồng và có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm cho con, số tài sản sinh hoạt còn lại giao cho anh K sở hữu. Theo bản kê ngày 14-1-2009 (do anh K kê) thì các khoản nợ phải trả của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL là 2.559701.550 đồng, nhưng chị chỉ chấp nhận 2 khoản nợ mang tiêu đề nợ “Ms N” 105 triệu đồng (là khoản tiên của chị L đưa cho chị nộp vào Công ty để mua xe ôtô) và nợ “Ngân hàng N” 700 triệu đồng, còn các khoản nợ khác chị không chấp nhận. Anh K là Giám đốc Công ty đưa ra những khoản nợ này thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Như vậy, giá trị của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL là 2.527.200.000 đồng + 641.633.033 đồng + 1.240.880.018 đồng + 4.913,25 USD - 105.000.000 đồng - 700.000.000 đồng - 3.604.713051 đồng + 4.913,25 USD. Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL thì chị có tỷ lệ góp vốn là 60%, còn anh K có tỷ lệ góp vốn là 40%. Tuy nhiên tài sản của Công ty cũng là tài sản chung của vợ chồng nên chị yêu cầu Tòa án chia theo tỷ lệ 50% cho mỗi bên, theo đó chị xin nhận 01 chiếc xe ôtô Santafe (BKS 16M-1315) trị giá 700 triệu đồng; 01 xe Contenner (BKS 16H-8982) trị giá 400 triệu đồng; 01 xe Contenner (BKS 16H-7626) trị giá 400 triệu đồng và nhận thêm tiền mặt là 302.356.525 đồng 2.456,25 USD; tổng số chị xin nhận tại Công ty là 1.802.356.525đồng; 2.456,25 USD và có trách nhiệm làm thủ tục bàn giao toàn bộ Công ty cho anh K tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vợ chồng chị đã thế chấp căn nhà số 6 Bãi chiếu bóng Acho Ngân hàng N để vay tiền cho Công ty hoạt động, theo đó hạn trả nợ cuối cùng là ngày 05-6-2012 nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do anh K không thừa nhận khoản nợ 1.500 USD của bà H, nên chị nhận nhách nhiệm trả khoản nợ này cho bà H. Riêng khoản nợ 10.000 USD của chị L, trong đó có 3.000 USD dùng để mua xe máy SH và 7.000 USD dùng để mua ôtô Santafe cho Công ty. Chị sẽ thanh toán 3.000 USD cho chị L để được sở hữu toàn bộ xe máy SH, còn chị và anh K có trách nhiệm dùng tài sản của Công ty để thanh toán 7000 USD cho chị L.

Bị đơn là anh Đặng Ngọc K trình bày: Anh nhất trí với lời trình bày của chị N về quan hệ hôn nhân, về con chung và tài sản chung. Anh đồng ý ly hôn với chị N và giao con chung cho chị N nuôi dưỡng, anh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000đồng/tháng. Anh cũng nhất trí không yêu cầu chia đàn Piano, đàn Oócgan và giá trị hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà để cho cháu D hưởng cũng như không yêu cầu chia căn nhà số 6 Bãi chiếu bóng A.

Tuy nhiên, anh đề nghị giao cho chị N 70.000.000đồng để được nhận toàn bộ số tài sản sinh hoạt gia đình.

Riêng về các khoản nợ: Chị N chỉ chấp nhận các khoản phải thu của khách hàng và 2 khoản nợ dưới tiêu đề nợ “Ms N”, “Ngân hàng N”, không chấp nhận các khoản nợ khác trong mục các khoản nợ phải trả của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL theo bản kê ngày 14-01-2009 nên anh cũng không chấp nhận các khoản phải thu của khách hàng và các khoản nợ của bà H, chị L vì hiện nay không có chứng cứ chứng minh về các khoản này; đồng thời, anh đề nghị Tòa án xem xét đến các khoản nợ phải trả của Công ty mà anh đã đưa ra và xác định công sức đóng góp vào Công ty của anh nhiều hơn chị N.

Ngoài ra, Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL được thành lập trên cơ sở tiếp quản Chi nhánh của Công ty LQ (do anh làm Trưởng Chi nhánh) nên một số thiết bị văn phòng hiện Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL đang sử dụng là tài sản của Công ty LQ chưa làm thủ tục bàn giao. KhiChi nhánh Công ty LQ ngừng hoạt động thì một số nhân viên đã cho anh vay tiền để thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL nên yêu cầu được chấp nhận các khoản nợ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Chu Thị H trình bày:

Tháng 8 năm 2004, bà cho vợ chồng chị N (con của bà) vay 1.500 USD nhưng vì quan hệ gia đình nên không lập giấy tờ. Bà yêu cầu chị N, anh K phải trả lại số tiền nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Hoàng Phượng L trình bày: Tháng 8 năm 2006 chị cho vợ chồng chị N (là em chồng của chị) vay 3.000 USD tương đương 49.200.000đồng để mua xe máy SH và tháng 5 năm 2008 chị cho vợ chồng chị N vay 7.000 USD tương đương 125.000.000 đồng để mua xe ôtô Santafe cho Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL hoạt động, nhưng vì quan hệ gia đình nên không lập giấy tờ. Chị yêu cầu chị Nanh K phải trả lại số tiền nêu trên.

Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 32/2009/HNGĐ-ST ngày 18-12-2009, Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng quyết định:

1. Về quan hệ tình cảm: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Hằng N và anh Đặng Ngọc K.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận giữa hai bên là giao con Đặng Thái D, sinh ngày 07-11-1997 cho chị N nuôi đến khi trưởng thành. Chấp nhận việc anh K đóng góp tiền phụ cấp nuôi con cho chị N số tiền là 1.500.000đồng/tháng tính từ ngày 01-01-2010 đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi). Không bên nào được quyền ngăn cản quyền gặp gỡ, chăm sóc và giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung:

- Giao cho chị Nga sở hữu tài sản có giá trị 1.320.720.349 đồng, baogồm:

+ Về tài sản gia đình: chị N được nhận 01 bộ âm ly, loa, miro và đầu hát Karaoke Califolia trị giá 4 triệu đồng; 01 đầu DVD trị giá 2 triệu đồng; 01 đầu DVR Pioneer trị giá 8 triệu đồng; 01 bộ bàn phấn, tủ quần áo và giường trị giá 4 triệu đổng; 01 máy vi tính và màn hình LCD trị giá 4 triệu đồng; 01 xe máy SH trị giả 4.500 USD (sau khi trừ khoản tiền vay 3.000 USD, còn lại giá trị là 26,5 triệu đồng); 01 tủ chống ẩm trị giá 500.000 đồng.

+ Về tài sản công ty TNHH ĐL: chị N được nhận 01 xe ôtô Santafe Biển kiểm soát 16M-1315 trị giá 700 triệu đồng; 01 xe contenner biển kiểm soát 15H-8982 trị giá 400 triệu đồng và nhận tiền mặt là 171.720.349 đồng.

- Giao cho anh K sở hữu tài sản có giá trị 1.320.720.349 đồng, bao gồm tài sản ở Công ty TNHH ĐL và tài sản gia đình còn lại sau khi chị N đã nhận đủ phần.

- Chị N và anh K phải tiến hành thủ tục bàn giao Công ty TNHH ĐL tại Cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Anh K và Công ty TNHH ĐL chịu trách nhiệm thanh toán nợ cho Ngân hàng N chi nhánh quận N, Hải Phòng theo Hợp đồng tín dụng số 70212020025- dư nợ đến ngày 30-11-2009 là 268 triệu đồng, hạn trả cuối cùng vào ngày 05-6-2012 và Hợp đồng tín dụng số 2101-LAV-2008380- dư nợ đến ngày 30-11-2009 là 245,5 triệu đồng, hạn trả cuối cùng vào ngày 12-12-2011. Chị N không còn nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nữa vì chị N đã trừ phần tài sản của chị được chia ở Công ty TNHH ĐL vào khoản nợ cho Ngân hàng.

- Chấp nhận sự thỏa thuận của chị N và anh K về việc các bên cùng thống nhất giao tài sản là giá trị Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho con trailà Đặng Thải D (tính đến năm 2009 trị giá 30 triệu đồng), phía chị N sẽ tiếp tục tham gia đóng bảo hiểm trên sau khi vợ chồng ly hôn đến khi đáo hạn.

- Chấp nhận ý kiến của các bên về việc không đề nghị Tòa án tiến hành giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng là ngôi nhà số 6 (số 9) Bãi chiếu bóng Avì hiện tại tài sản này được dùng làm tài sản thế chấp tại Ngân hàng N quận N, Hải Phòng đến nay chưa đáo hạn trả nợ.

- Bác yêu cầu về việc đòi lại tiền cho vay của bà Chu Thị H và chị Nguyễn Hoàng Phượng L đối với chị N, anh K vì không có chứng cứ và các bên không thống nhất được với nhau về các khoản vay.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ phải chịu do chậm thi hành án.

Ngày 25-12-2009, anh Đặng Ngọc K có đơn kháng cáo xin được nuôi con chung, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con; Tòa án cấp sơ thẩm định giá cả những tài sản của Công ty LQ, không xem xét những khoản nợ phải trả của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL cũng như các khoản nợ lương của nhân viên công ty là không đúng.

Ngày 31-12-2009, chị Nguyễn Thị Hằng N có đơn kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL tại những thời điểm khác nhau là không chính xác; tại Tòa án, chị đã chấp nhận các khoản phải thu (khách hàng nợ) là 1.240.880.018 đồng do anh K (Giám đốc Công ty) đưa ra, anh K đã thừa nhận và đồng ý trả các khoản nợ của bà H, chị L, nhưng Tòa án lại không chấp nhận các khoản nêu trên là không có căn cứ.

Cùng ngày 31-12-2009, bà Chu Thị H, chị Nguyễn Hoàng Phượng L kháng cáo yêu cầu Tòa án buộc anh K, chị N phải trả các khoản nợ đã vay của họ.

Tại Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 27/2010/HNGĐ-PT ngày 18-8-2010, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định: Sửa án sơ thẩm.

- Chị Nguyễn Thị Hằng N được ly hôn anh Đặng Ngọc K.

- Giao con chung Đặng Thái D sinh ngày 07-11-1997 cho chị Nguyễn Thị Hằng N trực tiếp nuôi dưỡng đến khỉ trường thành.

Anh Đặng Ngọc K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đồng. Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Chu Thị H đòi chị Nguyễn Thị Hằng N và anh Đặng Ngọc K phải trả khoản vay chung là 1.500 USD.

- Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Hoàng Phượng L đòi chị Nguyễn Thị Hằng N và anh Đặng Ngọc K phải trả khoản vay chung là 10.000 USD

- Công nhận thỏa thuận của anh Đặng Ngọc K và chị Nguyễn Thị Hằng N cho con chung là Đặng Thái D 01 đàn piano, 01 đàn organ, 01 bảo hiểm nhân thọ (tính đến hết năm 2009) trị giá 30 triệu đồng và không yêu cầu Tòa án giải quyết ngôi nhà số 6/51 A, HN, LC, Hải Phòng.

- Giao cho chị Nguyễn Thị Hằng N được sở hữu 40% giá trị tài sản của Công ty TNHH ĐL và 01 xe máy SH trị giá 4.500 USD tương đương 79.500.000 đồng.

- Giao cho anh Đặng Ngọc K được sở hữu: 60% giá trị tài sản của Công ty TNHH ĐL; 01 bộ âm ly, loa, micro và đầu hát karaoke Califorlia trị giá 4 triệu đồng; 01 đầu DVD trị giá 2 triệu đồng; 01 đầu DVR Pioneer trị giá 8 triệu đồng; 01 bàn phấn, tủ quần áo và giường trị giá 4 triệu đồng; 01 bàn máv vi tính và màn hình LCD trị giá 4 triệu đồng; 01 tủ chống ẩm trị giá 500.000 đồng; 01 bộ bàn ghế salon trị giá 5 triệu đồng; 01 tủ lạnh trị giá 500.000 đồng; 01 tivi Panasonic trị giá 3 triệu đồng; 02 giường 1,6 mvà 02quạt treo tường (không tính trị giá bằng tiền); 02 quạt cây trị giá 500.000 đồng; 01 bộ loa vi tính trị giá 2 triệu đồng; 01 xe máy Dream trị giá 5 triệu đồng; 02 máy điều hòa trị giá 6 triệu đồng; 01 tủ tài liệu trị giá 500.000 đồng; 01 máy ảnh Nikon D200 trị giá 8 triệu đồng; 01 ống kính máy ảnh Nikon trị giá 11 triệu đồng; 01 máy quay camera trị giá 5 triệu đồng; 01 máy ảnh Canon trị giá 2 triệu đồng; 01 két sắt trị giá 1 triệu đồng. (Tổng giá trị tài sản sinh hoạt gia đình anh K được hưởng là 72 triệu đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ phải chịu do chậm thi hành án.

Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Hằng N có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại phần xác định, phân chia tài sản và nghĩa vụ trả nợ của anh K và chị.

Tại Quyết định số 640/2011/KN-DS ngày 12-10-2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án phúc thẳm số 27/2010/HNGĐ-PT ngày 18-8-2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng; đề nghị Tòa Dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm nêu trên và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 32/2009/HNGĐ-ST ngày 18-12-2009 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng về phần quyết định chia tài sản khi ly hôn và giải quyết nợ chung; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm lại đối với những nội dung bị hủy theo đúng quy định của pháp luật với nhận định có nội dung:

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét tình trạng hôn nhân và ý kiến của hai bên, từ đó quyết định chị N được ly hôn anh K, giao cháu D cho chị N nuôi dưỡng, anh K có trách nhỉệm cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ; các đương sự không khiếu nại nên không xem xét.

Xét về việc xác định phân chia tài sản chung, xác định tài sản của Công ty và các khoản nợ chung thấy rằng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H và chị L có đơn yêu cầu Tòa án buộc chị N, anh K phải trả số tiền đã vay cho bà H 1.500 USD và trả cho chị L 10.000 USD (trong đó có 3.000 USD dùng để mua xe máy SH và 7.000 USD dùng để mua ôtô Santafe) được chị N thừa nhận. Chị N còn cho rằng khoản tiền vay để mua ôtô Santafe do chính chị nộp vào qũy của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL. Thực tế, anh K đã tự kê khai Bản kê tài sản Công ty ĐL tính đến ngày 14-01-2009 theo đó tại mục B (Các khoản nợ phải trả) có khoản nợ dưới tiêu đề “Ms N” 105 triệu đồng và Bản kê khai chi tiết tài sản thiết bị và đồ dùng văn phòng tính đến ngày 30-6-2009 theo đó tại mục D (Nợphải trả người bán) có khoản nợ dưới tiêu đề “ Vay của Ms N” 6.000 USD tương đương 108 triệu đồng. Tại Bản tổng hợp tài sản chung ngày 19-10-2009, anh K và chị N ký tên thống nhất xác định giá trị tài sản sinh hoạt gia đình là 128.250.000 đồng theo đó tại mục 3 (Tài sản gia đình) thể hiện chiếc xe máy SH lúc đầu mua là 7.000 USD, giá trị hiện tại là 4.500 USD nhưng trừ đi 3.000 USD (do vay để mua xe nhưng vẫn chưa trả) nên giá trị còn lại để tính vào tài sản của vợ chồng là 26.250.000 đồng. Tại biên bản hòa giải ngày 19-10-2009 và tại phiên tòa sơ thẩm, anh K nhất trí giá trị tài sản sinh hoạt gia đình là 128.250 đồng, đề nghị Tòa án chi cho mỗi bên ½ giá trị các tài sản nêu trên; đồng ý thanh toán các khoản nợ của bà H, chị L mà chị N đã cung cấp cho Tòa án. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng bà H, chị L không cung cấp được chứng cứ chứng minh về khoản tiền đã cho vay, từ đó không chấp nhận yêu cầu của bà H, chị L là trái với khoản 2 Điều 80 Vộ luật tố tụng dân sự và không đảm bảo quyền lợi của đương sự.

Tại Đơn kháng cáo ngày 25-12-2009, anh K chỉ kháng cáo về việc Tòa án cấp sơ thẩm định giá cả những tài sản của Công ty LQ, không xem xét những khoản nợ phải trả của Công ty cũng như các khoản nợ lương của nhân viên công ty. Sau đó, anh K có đơn kháng cáo bổ sung ngày 14-01-2010 đề nghị xem xét phần chia tài sản sinh hoạt gia đình khi thời hạn kháng cáo đã hết. Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận yêu cầu của anh K để sửa án sơ thẩm phần chia tài sản sinh hoạt gia đình là không đúng Điều 263 Bộ luật tố tụng dân sự và mục 1 phần III Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL là Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (trong đó tỷ lệ góp vốn của chị N là 60% và tỷ lệ góp vốn của anh K là 40%) được thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Thực tế, cả chị N và anh K đều có yêu cầu chia hiện vật là tài sản của Công ty. Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để chia tài sản tại Công ty là trái với khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, tiểu mục 3.5 mục 3 phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hơn nữa, Ngân hàng N đồng ý nhận tài sản khác có giá trị tương đương (thay cho căn nhà số 6 Bãi chiếu bóng A) làm bảo đảm cho khoản tiền vay của Công ty. Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Công ty dùng tài sản của Công ty để thế chấp cho khoản nợ này mà quyết định anh K và Công ty chịu trách nhiệm thanh toán nợ cho Ngân hàng, chị N không còn nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng (vì đã trừ phần tài sản của chị N được chia tại Công ty); đồng thời ghi nhận ý kiến của các bên về việc không chia căn nhà số 6 Bãi chiếu bóng A(vì đang dùng làm tài sản thế chấp tại Ngân hàng) là chưa đúng pháp luật và không đảm bảo được quyền lợi của chị N trong trường hợp Công ty không trả nợ cho Ngân hàng khi đến hạn. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm về phần chia tài sản tại Công ty để tách ra giải quyết bằng vụ án khác mới đúng. Tòa án cấp phúc thẩm lại giải quyết trong cùng vụ án hôn nhân và gia đình, đồng thời xác định anh K được sở hữu 60% giá trị tài sản của Công ty, chị N được sở hữu 40% giá trị tài sản của Công ty, trong khi tỷ lệ góp vốn của chị N là 60%, còn anh K là 40%) là không có căn cứ, trái với Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty và gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyển lợi của chị N. Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xác định tỷ lệ phần sở hữu của các bên tại Công ty là giải quyết không đúng yêu cầu khởi kiện của đương sự, gây khó khăn cho việc thi hành án.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì chị Nguyễn Thị Hằng N và anh Đặng Ngọc K kết hôn năm 1996, do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, quận LC, thành phố Hải Phòng. Chị N, anh K có một con chung là cháu Đặng Thái D, sinh năm 1998; có tạo lập được một số tài sản chung tổng giá trị tài sản sinh hoạt gia đình là 128.250.000 đồng, trong đó có khoản mua bảo hiểm nhân thọ cho cháu D tính đến năm 2009 là 30 triệu đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL; ngôi nhà số 6 Bãi chiếu bóng A.

[2]Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên công nhận cho chị N, anh K được ly hôn và giao cho chị N nuôi dưỡng con chung, anh K cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000đồng cho đến khi cháu D trưởng thành (18 tuổi).

[3] Riêng về tài sản chung chị N và anh K chỉ thống nhất về các tài sản dùng trong sinh hoạt gia đình.

[4] Chưa thống nhất về trị giá tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐL (sau đây gọi tắt là Công ty ĐL) và số nợ.

[5] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thể hiện Công ty ĐL do anh K làm giám đốc có cả chị N là thành viên của Công ty. Công ty đang hoạt động nên khi giải quyết vụ án, không được ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty; nếu chị N không tham gia Công ty mà giao toàn bộ Công ty ĐL cho anh K, thì cũng không thể lấy tài sản của Công ty để chia cho chị N như Toà án các cấp đã giải quyết, mà chị N chỉ được hưởng chênh lệch trị giá tài sản của Công ty. Toà án yêu cầu chị N, anh K xem xét, đối chiếu thống nhất các tài sản của Công ty để giải quyết theo quy định của pháp luật.

[6] Mặt khác, một số khoản nợ mà chị N đưa ra (nợ bà H, nợ chị L) không được anh K chấp nhận; tại phiên toà sơ thẩm ngày 14-12-2009 đến ngày 18-12-2009, tuy lúc đầu anh K chấp nhận trả nợ cho bà H 1.500 USD và trả chị L 10.000USD (BL310), nhưng sau đó anh K lại không nhất trí khoản nợ của bà H, vì anh không biết có khoản nợ này (BL311) và anh K cũng không chấp nhận khoản vay của chị L (BL312) nên cũng cần phải làm rõ khoản nợ vay của bà H và chị L. Ngoài ra, anh K còn khai nợ một số khoản nợ khác nên cũng phải làm rõ về các khoản nợ mà anh K khai.

[7] Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao thấy cần thiết phải hủy một phần bản án dân sự phúc thẩm và hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm về phần chia tài sản chung và số nợ chung để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

[8]Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 27/2010/HNGĐ-PT ngày 18-8-2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và huỷ Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 32/2009/HNGĐ-ST ngày 18-12-2009 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng về vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hằng N với bị đơn là anh Đặng Ngọc K; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Chu Thị H và chị Nguyễn Hoàng Phượng L đối với phần quyết định chia tài sản chung và giải quyết nợ chung.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

[5]Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thể hiện Công ty ĐL do anh K làm giám đốc có cả chị N là thành viên của Công ty. Công ty đang hoạt động nên khi giải quyết vụ án, không được ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty; nếu chị N không tham gia Công ty mà giao toàn bộ Công ty ĐL cho anh K, thì cũng không thể lấy tài sản của Công ty để chia cho chị N như Toà án các cấp đã giải quyết, mà chị N chỉ được hưởng chênh lệch trị giá tài sản của Công ty. Toà án yêu cầu chị N, anh K xem xét, đối chiếu thống nhất các tài sản của Công ty để giải quyết theo quy định của pháp luật.