Việc thực hiện hợp đồng xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam  thì bắt buộc phải áp dụng hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 4 Điều 138 Luật xây dựng năm 2014 quy định: Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng xây dựng là tiếng Việt. Trường hợp hợp đồng xây dựng có sự tham gia của bên nước ngoài thì ngôn ngữ sử dụng là tiếng Việt và ngôn ngữ khác do các bên hợp đồng thỏa thuận.

Để hướng dẫn cụ thể hơn về việc sử dụng ngôn ngữ trong hợp đồng xây dựng khi có sự tham gia của bên nước ngoài, tại khoản 3 Điều 11 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP đã quy định: Đối với hợp đồng xây dựng có yếu tố nước ngoài thì ngôn ngữ sử dụng là tiếng Việt và tiếng nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn; trường hợp không thỏa thuận được thì sử dụng tiếng Anh.