Theo quy định tại Điều 13 Luật hộ tịch năm 2014 thì, thẩm quyền đăng ký khai sinh được xác định như sau: “Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ thực hiện đăng ký khai sinh”.

Theo quy định tại Điều 12 Luật cư trú năm 2006, được sửa đổi bổ sung năm 2013 (sau đây gọi là Luật cư trú hiện hành) thì, nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.

Cũng theo quy định tại Điều 12 Luật cư trú hiện hành thì:

  • Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
  • Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
  • Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.

Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy  định tại khoản 1 Điều 12 Luật cư trú hiện hành thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.