Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 23/2022/HNGĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Về việc: “Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông Võ Văn N và bà Nguyễn Thị D trước đây là vợ chồng, do thời gian sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc nên ông N và bà D đã ly hôn với nhau theo bản án số 102/2018/HNGĐ-ST ngày 02/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc. Theo nội dung Bản án tuyên: ông N và bà D được ly hôn với nhau; về tài sản chung:ông N và bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Nay hai bên có mâu thuẫn về chia tài sản chung sau khi ly hôn và hai bên không thống nhất được việc phân chia tài sản. Do đó, ngày 19/5/2020 ông N đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án có Thẩm quyền chia tài sản chung giữa ông và bà D sau khi ly hôn. Theo kết quả thẩm định, định giá ông N yêu cầu được chia 175.000.000 đồng do bà D có trách nhiệm giao lại cho ông N.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 61/2022/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, quyết định: 

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn N.

Ông Võ Văn Ngà được chia đôi giá trị phần tài sản chung (phần đất và cây trồng trên đất thuộc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 25, toạ lạc ấp Thành Hóa 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và ngôi nhà cấp 4 xây tường trên thửa đất số 1714, tờ bản đồ số 4 (theo bản đồ 299), tọa lạc ấp Thành Hóa 1, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ

Cày Bắc, tỉnh Bến Tre) là 168.562.000 đồng, số tiền này do bà Nguyễn Thị D có nghĩa vụ giao lại cho ông Võ Văn Ngà.

Bà Nguyễn Thị D được chia tài sản chung bằng hiện vật gồm: quyền sử dụng đất có diện tích là 950,2 m2 thuộc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 25, toạ lạc ấp Thành Hóa 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và cây trồng trên đất là 22 cây dừa 15 năm tuổi, phần đất này do bà D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; một ngôi nhà cấp 4 xây tường trên thửa đất số 1714, tờ bản đồ số 4 (theo bản đồ 299), tọa lạc ấp Thành Hóa 1, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre; tất cả tài sản này do bà D đang quản lý, sử dụng.

Ngày 13/7/2022, bị đơn bà Nguyễn Thị D có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm: Bà yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn N, bà chỉ đồng ý chia căn nhà 1⁄2 giá trị bằng tiền là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) vì đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được chia.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về nội dung:

Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị D, nhận thấy:

Giữa ông N và bà D đã thống nhất được tài sản chung là căn nhà tọa lạc trên đất của ông T, bà U, nhưng các bên không thống nhất được giá trị còn lại của căn nhà. Do bà D, ông T, bà U không hợp tác và có hành vi cản trở không cho Hội đồng định giá tiến hành định giá tài sản. Phía ông N không có hành vi cản trở Hội đồng định giá, đưa ra giá trị tài sản của căn nhà còn lại là 200.000.000 đồng.

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị căn nhà đang tranh chấp theo giá ông N đưa ra là có căn cứ, từ đó buộc bà D có nghĩa vụ giao cho ông N 1⁄2 giá trị căn nhà với số tiền là 100.000.000 đồng là phù hợp. Bà D kháng cáo chỉ đồng ý hoàn trả cho ông N 1⁄2 giá trị căn nhà với số tiền

50.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của bà D rút kháng cáo về phần chia căn nhà, phía bà D đồng ý giao cho ông N 1⁄2 giá trị căn nhà với số tiền là 100.000.000 đồng theo bản án sơ thẩm đã tuyên. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phần rút kháng cáo của bà D tại phiên tòa về chia căn nhà. Đối với kháng cáo của bà D không đồng ý chia phần tài sản là quyền sử dụng đất thuộc thửa 233 tờ bản đồ số 25, nhận thấy: Thửa đất số 233 là tài sản mà bà D có được trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Bà D cho rằng đây là tài sản riêng của bà nhưng bà không có chứng cứ chứng minh, do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N buộc bà D chia cho ông N 1⁄2 giá trị quyền sử dụng đất và cây trồng trên đất theo giá của Hội đồng định giá là có căn cứ. Bà D kháng cáo không đồng ý chia cho ông N là không có cơ sở chấp nhận.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị D;

Giữ nguyên quyết định Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 61/2022/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.