Trong trường hợp trên, anh R mua đất và xây dựng cấp bốn trước khi kết hôn. Tuy nhiên sau khi kết hôn, vợ chồng anh xin cấp sổ hồng đứng tên hai vợ chồng, nên tài sản này là tài sản chung của vợ chồng.
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng được quy định theo Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, theo đó, tài sản chung vủa vợ chồng khi ly hôn được chia theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tai sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; bảo vệ lợi ích chinh đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động để tạo thu nhâp; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Trong trường hợp có sự sáp nhâp, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thanh niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao đọng và không có tài sản để tự nuôi mình.
Vì tài sản do vợ chồng anh R cùng nhau gây dựng, nên trong quá trình giải quyết vụ việc vợ chồng anh R có thể yêu cầu Tòa án phân chia tài sản dựa trên cơ sở công sức gây dựng tài sản của từng người.