Trong trường hợp trên, căn nhà được vợ chồng anh H mua trong thời kỳ hôn nhân. Phần lớn tiền mua nhà là bố mẹ anh H cho nhưng tài sản tặng cho, về nguyên tắc, nếu không được tuyên bố rõ cho riêng, thì sẽ là tài sản chung. Việc tuyên bố là tặng cho riêng xảy ra ngay lúc tặng cho tài sản, cụ thể là trong hợp đồng tặng cho giữa bố mẹ anh H và anh H, căn cứ vào đó, giấy tờ pháp lý  sẽ được chỉ đứng tên riêng của  anh H. Ở đây, tài sản đứng tên hai vợ chồng, có nghĩa là, khi tặng cho đã không tuyên bố là tặng cho riêng, vì vậy, số tiền cho mua nhà được coi là tài sản chung cho nên căn nhà là tài sản chung của hai vợ chồng.

Việc chia tài sản chung là căn nhà được căn cứ vào tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Nếu anh H có đủ căn cứ chứng minh được phần đóng góp cao hơn thì sẽ được tòa chia cho phần hơn so với người vợ.