Theo quy định tại điểm 4 Điều 5 Luật quản lý thuế năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014 ( sau đây viết tắt là Luật quản lý hiện hành), kỳ tính thuế là khoản thời giann để xác định số tiền thuế phải nộp ngâm sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế.

Tại Điều 7 Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành, Điều 6 Thông tư số 111/2013/TT – BTC đã sửa đổi, bổ sung quy định kỳ tính thuế với hai loại đối tượng nộp thuế. Cụ thể như sau:

  1. Kỳ tính thuế đối với cá nhân cư trú được quy định như sau:
    1. Kỳ tính thuế theo năm: áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công.
      Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế được tính theo năm dương lịch.
      Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế đầu tiên được xác định là 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Từ năm thứ hai, kỳ tính thuế căn cứ theo năm dương lịch.
    2. Kỳ tính thuế theo từng lần phát sinh thu nhập: áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ nhượng quyền thương mại, thu nhập từ thừa kế, thu nhập từ quà tặng.
    3. Kỳ tính thuế theo từng lần phát sinh hoặc theo năm áp dụng đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán.
  2. Kỳ tính thuế đối với cá nhân không cư trú được tính theo từng lần phát sinh thu nhập áp dụng đối với tát cả thu nhập chịu thuế. Trường hợp cá nhân kinh doanh không cư trú có địa điểm kinh doanh cố định như cửa hàng, quầy hàng thì kỳ tính thuế áp dụng như đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh.