Điểm a , b khoản 3 Điều 4 Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy định người nộp thuế trong trường hợp được Nhà nước cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư thì người thuê đất ở là người nộp thuế . Trường hợp người có quyền sử dụng đất cho thuê đất theo hợp đồng thì người nộp thuế được xác định theo thỏa thuận trong hợp đồng . Trường hợp trong hợp đồng không có thoả thuận về người nộp thuế thì người có quyền sử dụng đất là người nộp thuế;

Theo hướng dẫn tại điểm 3.1 , 3.2 khoản 3 Điều 3 Thông tư số 153/ 2011 /TT - BTC thì người nộp thuế trong trường hợp được Nhà nước giao đất , cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư là người được nhà nước giao đất , cho thuê đất. Trường hợp người có quyền sử dụng đất cho thuê đất theo hợp đồng thì người nộp thuế được xác định theo thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp trong hợp đồng không có thoả thuận về người nộp thuế thì người có L quyền sử dụng đất là người nộp thuế;

Ví dụ : Ông A có thửa đất tại tỉnh B nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ( đất không có giấy tờ hoặc chỉ có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi , bổ sung năm 2009 , 2010 ) thì ông A là người nộp thuế đối với thửa đất đó . Tuy nhiên , ông A không sử dụng mà xây nhà và cho ông B thuê . Người nộp thuế được xác định như sau:

- Trường hợp ông B chỉ thuê nhà ( không thuê đất ) của ông A thì ông A là người nộp thuế;

- Trường hợp ông B thuê cả nhà và đất của ông A nhưng không có hợp đồng hoặc trong hợp đồng không quy định rõ người nộp thuế thì ông A là người nộp thuế;

- Trường hợp trong hợp đồng thuê nhà , đất giữa ông B và ông A quy định rõ người nộp thuế thì người nộp thuế là người được xác định theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký.