Theo Điều 132 Luật nhà ở năm 2014, trong thời hạn thuê căn hộ chung cư theo thỏa thuận trong hợp đồng, bên cho thuê không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê căn hộ chung cư và thu hồi chung cư đang cho thuê, trừ các trường hợp pháp luật cho phép đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê dưới đây:

  1. Bên cho thuê căn hộ chung cư có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê căn hộ chung cư và thu hồi chung cư đang cho thuê khi có môt trong các trường hợp sau đây:
    • Bên cho thuê căn hộ chung cư thuộc sở hữu nhà nước; nhà ở xã hội cho thuê không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của Luật nhà ở năm 2014.
    • Bên  thuê không trả tiền tiền thuê căn hộ chung cư theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên mà không có lí do chính đáng.
    • Bên thuê  sử dụng căn hộ chung cư không đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
    • Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ căn hộ chung cư đang thuê.
    • Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại căn hộ chung cư đang thuê mà không có sự đồng ý của bên cho thuê.
    • Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà chung cư hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần thứ ba mà vẫn không khắc phục.
    • Trường hợp không thỏa thuận được giá thuê căn hộ chung cư mới khi chưa hết hạn hợp đồng thuê căn hộ chung cư mà bên cho thuê thực hiện cải tạo căn hộ chung cư và được bên thuê đồng ý.
  2. Bên thuê căn hộ chung cư có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê căn hộ chung cư khi bên cho thuê căn hộ chung cư có một trong các hành vi sau đây:
    • Không sửa chữa căn hộ chung cư khi có hư hỏng nặng.
    • Tăng giá thuê căn hộ chung cư bất hợp lí hoặc tăng giá thuê mà không thông báo cho bên thuê căn hộ chung cư biết trước theo thỏa thuận.
    • Khi quyền sử dụng căn hộ chung cư bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba.

Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê căn hộ chung cư phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; nếu vi phạm quy định này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.